Chuyển đến nội dung chính

Độ lặp lại (Repeatability)


Mục đích cuối cùng của đo lường vẫn là làm sao giá trị đo gần với giá trị chính xác nhất (true value) của đại lượng được đo, trong đó sai số được hiểu là độ sai khác giữa giá trị đo và giá trị chính xác. Trên thực tế, sai số là không thể tránh khỏi vì môi trường đo lường luôn có nhiều biến đổi và không tuyến tính, và bản chất của việc sai số cũng rất khó xác định. Thực tế, nhà sản xuất chỉ xác định khoảng sai số mà thiết bị hoạt động trong điều kiện thử nghiệm và điều kiện thực tế.

Hình dung đô chính xác được ví von như tập hợp các viên đạn được vận động viên bắn vào bia. Nhìn vào kết quả bắn như hình trong bài viết, ta có thể nói rằng vận động viên bắn súng có phong độ rất ổn định, các phát bắn đều  lệch nhau rất nhỏ, có độ lặp lại (repeatability) rất tốt. Tuy vậy, nhìn vào tâm của bia bắn, thì rõ ràng là vận động viên này không ghi được nhiều điểm, vì các điểm này không nằm gần tâm vòng tròn. Vậy kết quả bắn súng ở đây chỉ thể hiện khả năng bắn súng của vận động viên này có độ lặp lại tốt nhưng lại có sai số nhất định so với tâm. Vậy, giả sử rằng, trước khi bắn súng, có 1 ai đó dịch bia đi 1 đoạn lệch tâm, sao cho tâm của bia đạn nằm ngay vùng phân bố của các điểm bắn. Lúc này, vận động viên chắc chắn sẽ vô địch. Sai số này gọi là sai số hệ thống (systematic error), tức là sai số đã có sẵn trong hệ thống rồi, sai số này có thể do sai lêch về cơ khí, độ trôi điểm zero của thiết bị điện tử. Sai số này dễ xử lý bằng cách bù 1 lượng sai số vào, hay bằng cách zeroing định kỳ, cũng giống như ai đó dịch tâm đường tròn đi một đoạn như đã nói ở trên. Sai số hệ thống có thể được kiểm soát bằng cách đi hiệu chỉnh lại thiết bị (calibration), để đưa sai số hệ thống về Zero (0).

Cũng ví dụ trên, độ  lệch nhau giữa các lần bắn là ngẫu nhiên, không ai có thể đoán được lần bắn sau lệch lần bắn trước là bao nhiêu. Có thể lúc bắn, vận động viên bị ảnh hưởng bởi gió, hay bị chớp mặt trong lúc bắn, hay vì nhiều lý do khác. Vì vậy sai lệch giữa các lần đo này mang tính ngẫu nhiên. Trong đo lường, sai số ngẫu nhiên được gây ra bởi quá trình vận hành, điều kiện vận hành thực tế.
Vậy, sai số tổng sẽ là sai số ngẫu nhiên và sai số hệ thống.

Sai số tổng = sai số ngẫu nhiên + sai số hệ thống.

Trong công nghiệp, một số ứng dụng mà mục đích để duy trì một tình trạng hệ thống nhất định (như đo lưu lượng 3 pha, độ chính xác không quá quan trọng, nhưng kết quả các phép đo phải có độ lặp lại tương đối tốt, để người vận hành có thể biết % của các phase qua lưu lượng). Vì vậy, ứng dụng này luôn đòi hỏi độ lặp lại phải thật tốt.

Trong đa số trường hợp, điều khiển là để kiểm soát chất lượng đầu ra của sản phẩm, nên độ chính xác luôn được quan tâm hơn độ lặp lại. Lúc này, người vận hành luôn quan tâm đến thiết bị đo có gần điểm chính xác nhất chưa (true value). Độ chính xác, lúc này cần được tối ưu bằng cách làm giảm sai số tổng, tức là sai số hệ thống và sai số ngẫu nhiên. Vì vậy, sai số cần được loại bỏ bằng cách hiệu chỉnh thường xuyên (recalibration).

Trong tiếng Anh, độ lặp lại Repeatability có ý nghĩa tương đương với Precision - tính chính xác., khác với accuracy cũng được dịch là chính xác. Một thiết bị đo chính xác là 1 thiết bị vừa có độ chính xác accuracy tốt và có độ lặp lại repeatability tốt.
Phong độ là nhất thời (sai số ngẫu nhiên mang tính nhất thời), còn đẳng cấp là mãi mãi (sai số hệ thống nhỏ). Vừa có đẳng cấp, vừa có phong độ ổn định, thì vận động viên sẽ luôn đạt thành tích cao nhất.


 Tham khảo: Process Measurement and Anlysis - Volume 1 - Bela G. Liptak

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bản vẽ quy trình công nghệ và đo lường P&ID

P&ID có 2 cách diễn giải, chữ P đầu tiên có thể là Process hay Piping tùy vào mục đích sử dụng. Vì vậy, Bản vẽ quy trình công nghệ (hay đường ống) và các thiết bị đo lường là bản vẽ thể hiện thông tin cơ bản về công nghệ, đường ống và các thiết bị đo lường. Bản vẽ này được sử dụng nhiều nhất trong quá trình thiết kế, vận hành và bảo trì. Nó giúp cho các kỹ sư hiểu một cách tổng quát nhất toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất trong nhà máy với mức độ chi tiết đáng ngạc nhiên về công nghệ, về đường ống, về đo lường bằng cách sử dụng các quy ước ký hiệu theo tiêu chuẩn ISA5.1-1992 (Instrumentation Symbols and Identification) và tiêu chuẩn ISA5.3-1983 (Graphic Ssymbols for Distributed Conttrol/ Shared Display Instrumentation,…). Về công nghệ, P&ID thể hiện được với từng công nghệ trong chu trình xử lý hay sản xuất của nhà máy, các thiết bị chính nào được sử dụng, công suất vận hành thiết kế ra sao, các thiết bị này có thông tin về công nghệ như áp suất, nhiệt độ như thế nào? ...

Lại nói về bảo trì.

  Lại nói về bảo trì. Bảo trì thì có các loại: bảo trì sửa chữa (breakdown) và bảo trì ngăn ngừa (preventive). Sau này, nhờ công nghệ vi xử lý phát triển đồng thời thu thập dữ liệu máy dễ dàng hơn, bảo trì dự báo (predictive) dần trở lên phổ biến. Mình tin rằng, tương lai chỉ cần 5 đến 10 năm nữa thì máy móc có thể chủ động "nhắn" cho con người là "tôi sắp bệnh" để có hành động bảo trì ngăn ngừa kịp thời. Quay lại bảo trì trong các nhà máy, thì hiện tại phổ biến vẫn là bảo trì sửa chữa và bảo trì ngăn ngừa. Bảo trì sửa chữa hiểu đơn giản là khi nào hư thì sửa, không phải sử dụng nguồn nhân lực thường xuyên và in-house, xử lý sự cố bằng cách thay thế hay thuê ngoài vào sửa. Có nhiều nhược điểm trong bảo trì sửa chữa, chủ yếu vẫn là do bị động. Bảo trì sửa chữa phù hợp với các xưởng sản xuất chế biến nhỏ, môi trường làm việc không thuộc có nguy cơ nguy hiểm như cháy nổ, khi xảy ra sự cố ảnh hưởng đến sản lượng, không gây ảnh hưởng quá nhiều đến kế hoạch sản xuất. Ngượ...

Thiết kế kỹ thuật: Thiết kế cơ sở front end và thiết kế chi tiết

 Thiết kế kỹ thuật (engineering design) thường được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn thiết kế cơ sở (Front end engineering) và giai đoạn thiết kế chi tiết (detailed engineering).  Giai đoạn front-end dài hay ngắn tùy thuộc vào từng dự án, quy mô dự án và các điều kiện khác. Đầu ra của giai đoạn front-end phải định nghĩa được các yêu cầu của dự án (project requirements), các tiêu chuẩn thiết kế, các hướng dẫn và các yêu cầu của nước sở tại hay yêu cầu riêng biệt của chủ đầu tư; chính những tài liệu này là cơ sở nền tảng cho sự thành công của giai đoạn sau là thiết kế chi tiết. Thông thường trong ngành dầu khí, các dự án được thiết kế front end khá bài bản và tốn nhiều thời gian, tuy nhiên nếu các tài liệu cơ sở này chi tiết và cụ thể, thì khi triển khai giai đoạn thiết kế chi tiết sẽ đẩy dự án đi rất nhanh và có chất lượng. Thiết kế front end thường là thiết kế mang tính cơ sở, thường hay được thực hiện bởi các kỹ sư nội bộ của chủ đầu tư. Vì tính chất ảnh hưởng của thiết kế c...