Chuyển đến nội dung chính

Hiệu chuẩn - calibration

 Khi bạn đổ xăng tại cây xăng, bạn mong muốn 1 lít xăng được đổ vào xe bạn đúng 1 lít xăng. Hay khi con bạn bị sốt, bạn muốn chắc chắn rằng cặp đo nhiệt mà bạn dùng để kiểm tra nhiệt độ cơ thể của con bạn là chính xác, việc này rất quan trọng vì nếu nhiệt độ đo sai, số chỉ thân nhiệt thấp hơn thực tế có thể làm cho con bạn bị co giật khi sốt, gây nguy hiểm thậm chí đến tính mạng của trẻ.

 

Trong công nghiệp, khi một thiết bị đo mức trong bồn kín chỉ 90%, người vận hành phải chắc chắn rằng mực chất lỏng trong bồn là 90%, nếu thiết bị đo sai, sự cố tràn lưu chất có thể xảy ra. Vụ nổ nhà máy lọc dầu của BP Texas xảy ra là vì thiết bị đo mức không hoạt động đúng chức năng của nó. Trong quan trắc môi trường, các chỉ số quan trắc phải được đo lường thường xuyên, liên tục và chính xác để đảm bảo sự cố môi trường được kiểm soát, tránh gây ra tổn thất cho hệ sinh thái động thực vật và con người.

 

Vậy, để thiết bị đo luôn đo đúng và tin cậy, công tác hiệu chuẩn phải được thường xuyên tiến hành. Hiệu chuẩn, được định nghĩa là 1 hoạt động thử nghiệm mà ở đó các giá trị đo đã được biết trước được tiến hành trên thiết bị đo. Giá trị đo được này được ghi nhận và so sánh với giá trị chuẩn. Các thiết bị chuẩn này thường được kiểm định bởi các cơ quan chức năng với 1 chu kỳ kiểm định nhất định, và được lưu trữ thông tin bằng văn bản. Đối với hóa chất chuẩn thì phải được kiểm định về nồng độ bởi 1 bên thứ 3 có chứng nhận.

 

Khi có sự sai khác giữa giá trị đo thực tế và giá trị chuẩn, công tác hiệu chỉnh được tiến hành nhằm đưa thiết bị về trạng thái đo đúng. Công tác hiệu chuẩn thường được tiến hành với nhiều điểm đo để kiểm tra đặc tính tuyến tính của giá trị đo. Các điểm đo thường là 0%, 25%, 50%, 75% và 100% giá trị toàn dải đo.

 

Hầu hết các thiết bị đo có thể chỉnh định lại zero và span và đưa các giá trị này về giá trị chấp nhận được.


Hiệu chuẩn (calibration), khác với kiểm chuẩn (kiểm định) ở kiểm định kết quả trả về thường là đạt hoặc không đạt. Trong kiểm định, nếu không đạt thì phải hiệu chỉnh và làm kiểm định lại.





Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phát triển bản vẽ đo lường tự động hóa trong dự án

Các bản vẽ và tài liệu mà kỹ sư đo lường sử dụng trong công việc thiết kế và vận hành với những mục đích tương đối khá khác nhau. Kỹ sư đo lường trong dự án mới thường phải tiếp cận hệ thống tài liệu dựa trên các giai đoạn phát triển của dự án, mà điển hình là giai đoạn ý tưởng (concept hay pre-FEED), giai đoạn thiết kế sơ bộ (front-end engineering design FEED), giai đoạn thiết kế chi tiết (detail design) và giai đoạn lắp đặt chạy thử (pre-commissioning và commissioning). Kỹ sư đo lường trong giai đoạn vận hành được thừa hưởng bộ tài liệu của giai đoạn thiết kế, vì thế, chất lượng của bộ tài liệu dự án đặc biệt quan trọng cho suốt quá trình phát triển, vận hành và tháo dỡ (development, operation and de-commissioning). Bộ tài liệu và bản vẽ dự án hầu hết phải được xây dựng trên cơ sở các quy định về quản lý dự án (project specification), các hướng dẫn về thiết kế của từng chủ đầu tư (company guidelines), các tiêu chuẩn kỹ thuật tại nước sở tại và tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế (national an...

Phát triển bản vẽ P&ID

Như đã đề cập, P&ID là bản vẽ đại diện cho quy trình công nghệ của nhà máy và cách thức vận hành của các thiết bị hay quy trình chính, quy trình xử lý nào trước, quy trình nào kế tiếp theo sau, và chúng được nối với nhau bằng đường ống gì, vật liệu gì, chịu được các điều kiện vận hành áp suất, nhiệt độ, đặc tính lưu chất ra sao. Khi phát triển dự án, bản vẽ này đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động thiết kế khác, bao gồm thiết kế chi tiết và các tài liệu vận hành. P&ID cũng là công cụ để các kỹ sư khác chuyên môn, khác nhóm có thể nói chuyện với nhau dễ dàng hơn. P&ID thường được phát triển từ PFD, bảng tính cân bằng khối lượng (mass balance) và các yêu cầu về điều khiển nhà máy. Để phát triển bản vẽ P&ID, trong nhóm thiết kế cần có kỹ sư Công Nghệ và kỹ sư đo lường và điều khiển. Tuy nhiên, kỹ sư công nghệ sẽ đóng vai trò là người kiểm soát chất lượng, phê duyệt và kiểm soát các phiên bản của bộ P&ID. Các hoạt động khi phát triển P&ID như HAZOP (h...

Thiết kế kỹ thuật: Thiết kế cơ sở front end và thiết kế chi tiết

 Thiết kế kỹ thuật (engineering design) thường được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn thiết kế cơ sở (Front end engineering) và giai đoạn thiết kế chi tiết (detailed engineering).  Giai đoạn front-end dài hay ngắn tùy thuộc vào từng dự án, quy mô dự án và các điều kiện khác. Đầu ra của giai đoạn front-end phải định nghĩa được các yêu cầu của dự án (project requirements), các tiêu chuẩn thiết kế, các hướng dẫn và các yêu cầu của nước sở tại hay yêu cầu riêng biệt của chủ đầu tư; chính những tài liệu này là cơ sở nền tảng cho sự thành công của giai đoạn sau là thiết kế chi tiết. Thông thường trong ngành dầu khí, các dự án được thiết kế front end khá bài bản và tốn nhiều thời gian, tuy nhiên nếu các tài liệu cơ sở này chi tiết và cụ thể, thì khi triển khai giai đoạn thiết kế chi tiết sẽ đẩy dự án đi rất nhanh và có chất lượng. Thiết kế front end thường là thiết kế mang tính cơ sở, thường hay được thực hiện bởi các kỹ sư nội bộ của chủ đầu tư. Vì tính chất ảnh hưởng của thiết kế c...