Khi nhắc đến
độ chính xác và độ lặp lại, ta không thể nhắc đến một khái niệm khác đó là độ
không đảm bảo hay độ không chắc chắn (uncertainty). Giả sử nói một thiết bị đo
áp suất có độ chính xác là 0.5% giá trị đọc được, vậy có phải trong tất cả 100%
các lần đo, độ chính xác đều nằm trong sai số cho phép là 0.5%. Điều này không
thể xảy ra trong điều kiện thử nghiệm, cũng như chắc chắn sẽ không xảy ra trên
thực tế.
Trong đo
lường, giá trị đo tùy vào mục đích mà
dùng để giám sát, điều khiển nhưng đều dùng để ra một quyết định nào đó. Giá
trị đo này, phải có chất lượng đủ "tốt" có nghĩa là có thể tin tưởng
được để ra một hành động quyết định nào đó. Vì vậy, khi đề ra một phương pháp
thử nghiệm để ra một kết luận, người ta hay nói đến độ chắc chắn của dữ liệu là
bao nhiêu phần trăm. Vì vậy, độ không đảm bảo trong đo lường xác định được giới
hạn của một tập các sai số cụ thể hay sai số hệ thống với độ tin cậy nhất định.
Độ tin cậy phổ biến nhất trong việc phân tích độ không đảm bảo là 95%. Con số
95% (tương ứng với 2 sigma) xuất phát từ
lý thuyết phân phối chuẩn trong xác xuất thống kê.
Trong
xác xuất, khi tung đồng xu, xác suất để đồng xu sấp hoặc ngửa là 50/50. Trong
đo lường, xác suất để 1 giá trị nằm trong khoảng sai số cho phép là ngẫu nhiên.
Với 1 giá trị đo duy nhất, ta không thể nói là giá trị đó đúng hay sai. Nếu lỡ
lần đo đó, giá trị đo bị lọt vào 5% còn lại của phân phối chuẩn thì sao, lúc đó
sai số sẽ rất lớn. Khi đo 2 giá trị, ta có được thêm 1 điểm để so sánh. Tới
đây, có gì đó đã trả lời được câu hỏi tại sao có pressure transmitter mà còn có
thêm 1 cái pressure gauge, 1 điểm mà đo đến 2 thiết bị đo, tốn chi phí và tốn
thời gian bảo trì sửa chữa. Nhưng căn cứ vào lý thuyết uncertainty trên, mà
chúng ta thấy có lý do để người thiết kế thiết kế ra 2 thiết bị đo cho 1 điểm
đo. Vấn đề là, tại điểm đo đó, thông số đo quan trọng đến nỗi, nếu nó đo sai sẽ
gây ra mất an toàn hay gây thiệt hại về kinh tế, nên người ta không an tâm khi
chỉ có 1 thiết bị đo tại điểm đo trọng yếu đó.Gia tăng
thiết bị đo sẽ làm người vận hành tự tin vào giá trị đo mà mình đọc được.
Vậy điều gì tạo ra
sự không chắc chắn trong phép đo, có rất nhiều yếu tố về môi trường, thời gian,
lỗi con người. Ngay cả khi hiệu chuẩn thiết bị đo bằng chất chuẩn hay thiết bị
chuẩn được kiểm định, thì các chuẩn này cũng có sai số, và cả sai số của người
trực tiếp đi hiệu chuẩn nữa. Mỗi một bước trong đo lường, mỗi thành phần của
thiết bị đo lường đều góp phần tăng thêm sai số.
Trên thực
tế, lần đầu tiên tiếp xúc với khái niệm độ không đảm bảo đo, tôi đang đảm trách
vị trí kỹ sư đo kiểm (Metering engineer) cho hệ thống đo dầu condensate và khí
xuất vào đường ống Nam Côn Sơn 1. Vì đường ống khí và condensate này dùng chung
cho giàn Lan tây và giàn Rồng đôi, nên hệ thống đo khí và condensate được xem
như hệ thống đo thương mại để phân chia sản phẩm. Việc sai số nhỏ sẽ dẫn đến
mất mát rất lớn về thương mại. Vì vậy, ngoài sai số, yêu cầu tính toán về độ
không đảm bảo của hệ thống đo là bắt buộc. Trong báo cáo tính toán về độ không
đảm bảo của hệ thống đo thương mại, các thành phần của hệ thống như đầu đo áp
suất, lưu lượng, nhiệt độ đều được tính toán độ không đảm bảo mà độ không đảm
bảo này sẽ góp phần vào độ không đảm bảo của toàn hệ thống đo (combined
uncertainty). Vì tính chất khách quan của tính toán, nên các đơn vị thường thuê
1 bên thứ 3 làm nhiệm vụ tính toán độ không đảm bảo của hệ thống đo theo tiêu
chuẩn ISO.
Một ví dụ
khác là khi tôi làm dự án lắp đặt thiết bị đo lưu lượng 3 pha (dầu, khí và
nước), tiếng Anh là multiphase flow meter), cho đầu giếng khoan. Lý do chọn
multiphase flowmeter là vì kích thước của thiết bị đo lưu lượng 3 pha này nhỏ
hơn rất nhiều so với bình tách (test separator). Lúc này, ngoài độ sai số mà
chúng tôi cần chấp nhận là khoảng 5% so với giá trị đọc, chúng tôi còn xem xét
đến yếu tố không đảm bảo của phép đo. Trong thành phần của thiết bị đo lưu
lượng ba pha, có rất nhiều thiết bị đo riêng lẻ cấu thành. Tất cả các thiết bị
đo này tạo ra độ không đảm bảo đo rất lớn. Hơn nữa, các đặc tính pha từ dưới
giếng khoan là không đoán trước, và khi thông số biến đổi sẽ làm sai lệch kết
quả đo.
Khi làm
trong lĩnh vực quan trắc môi trường, tôi còn được hỏi về độ chính xác của thiết
bị đo pH vì tài liệu của nhà sản xuất không hề đề cập đến độ chính xác. Tìm
hiểu ra thì đối với 1 nhà sản xuất có tiếng, họ không ghi độ
chính xác vì nguyên lý đo dạng màng của đâu đo pH có khá nhiều yếu tố mà nhà
sản xuất không kiểm soat được. Mà 3 yếu tố chính gây ra sai số phép đo là do
bản thân đầu đo pH tiếp xúc mới môi chất đo mà người sử dụng lắp đặt, bản thân độ ổn định, tính axit và
bazo của môi chất trong quá trình sản xuất của người sử dụng, và cuối cùng là cách thức cân chỉnh và hiệu chuẩn của người
sử dụng. Chính vì vậy, khi nói về độ chính xác trong trường hợp này, nhà sản
xuất cần loại bỏ các yêu tố gây ra không đảm bảo mà họ không kiể soát được (do người sử dụng tạo ra), và chỉ cung cấp độ chính xác
trong 1 điều kiện cụ thể mà thôi.
Vậy, nếu một
kỹ sư đo lường khi sử dụng một thiết bị đo, mà bạn còn hoài nghi về giá trị đo
mình đọc, tức là bạn không tin 100% vào con số mà thiết bị chỉ thị, hoặc khi
bạn biết biến đo của bạn có quá nhiều tham số trong quá trình đo để ra kết quả
đo cuối cùnghãy hỏi về độ không đảm bảo đo.
Người viết bài này đứng trên cái nhìn của một kỹ sư tự động hóa đo lường. Và thực sự khi viết về độ không đảm bảo, mức độ chắc chắn về bài này cũng chỉ là 2sigma tức 95% thôi, nên sẵn sàng đón nhận ý kiến chính xác để thông điệp và kiến thức trong bài viết có độ không đảm bảo là 0%.
Người viết bài này đứng trên cái nhìn của một kỹ sư tự động hóa đo lường. Và thực sự khi viết về độ không đảm bảo, mức độ chắc chắn về bài này cũng chỉ là 2sigma tức 95% thôi, nên sẵn sàng đón nhận ý kiến chính xác để thông điệp và kiến thức trong bài viết có độ không đảm bảo là 0%.
Nhận xét
Đăng nhận xét